[PR]上記の広告は3ヶ月以上新規記事投稿のないブログに表示されています。新しい記事を書く事で広告が消えます。
Bài viết COVID-19 nặng được dịch bởi Bác sĩ Đặng Thanh Tuấn từ bài viết gốc: Severe COVID-19
Đánh giá và xử trí COVID-19 nặng:
”Một người đàn ông 50 tuổi, trước đây khỏe mạnh đến khoa Cấp cứu với tình trạng khó thở nặng hơn trong 2 ngày. Anh ấy đã bị sốt, ho và mệt mỏi trong suốt một tuần trước khi nhập viện. Anh ấy có vẻ ốm nặng. Nhiệt độ cơ thể là 39,5°C (103°F), nhịp tim 110 nhịp mỗi phút, nhịp thở 24 nhịp thở mỗi phút và huyết áp 130/60 mm Hg. Độ bão hòa oxy là 87% trong khi bệnh nhân đang thở không khí xung quanh. Số lượng bạch cầu là 7300 trên mỗi microlit với giảm bạch cầu lympho. Chụp X quang phổi cho thấy các vết mờ loang lổ hai bên trong nhu mô phổi. Xét nghiệm phản ứng chuỗi-polymerase-sao chép ngược phát hiện sự hiện diện của RNA coronavirus 2 (SARS-CoV-2) gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng trong một phết mũi họng. Bạn sẽ đánh giá và xử trí trường hợp này như thế nào?”
”Đường viền bên trái của các ô màu hiển thị thời gian trung bình để bắt đầu các triệu chứng và biến chứng. Có sự khác biệt lớn về thời gian của các triệu chứng và biến chứng. Phỏng theo Zhou và cộng sự [2] và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh [1]”
Các triệu chứng ban đầu phổ biến nhất của bệnh do coronavirus 2019 (COVID-19) là sốt, ho, mệt mỏi, chán ăn, đau cơ và tiêu chảy [1] Bệnh nặng thường bắt đầu khoảng 1 tuần sau khi bắt đầu xuất hiện các triệu chứng. Khó thở là triệu chứng phổ biến nhất của bệnh nặng và thường đi kèm với giảm oxy máu [2,3] (Hình 1).
Đặc điểm nổi bật của COVID-19 là tình trạng suy hô hấp diễn tiến nhanh chóng ngay sau khi bắt đầu khó thở và giảm oxy máu. Bệnh nhân bị COVID-19 nặng thường đáp ứng các tiêu chuẩn của hội chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS), được định nghĩa là khởi phát cấp tính của thâm nhiễm hai bên phổi, giảm oxy máu nặng và phù phổi mà không giải thích được đầy đủ do suy tim hoặc quá tải dịch. Đa số bệnh nhân bị COVID-19 nặng bị giảm bạch huyết, [5] và một số bị rối loạn hệ thần kinh trung ương hoặc ngoại vi [6] COVID- 19 nặng cũng có thể dẫn đến tổn thương tim, thận và gan cấp tính, ngoài ra còn gây loạn nhịp tim, tiêu cơ vân, rối loạn đông máu và sốc [7-9]
Những suy cơ quan này có thể liên quan đến hội chứng giải phóng cytokine, đặc trưng bởi sốt cao, giảm tiểu cầu, tăng kali huyết và tăng các dấu hiệu viêm khác [10]
Chẩn đoán COVID-19 có thể được thiết lập dựa trên tiền sử lâm sàng gợi ý và phát hiện SARS-CoV-2 RNA trong dịch tiết đường hô hấp. Chụp X quang ngực nên được thực hiện và thường cho thấy sự đông đặc hai bên hoặc hình kính mờ [11] (Hình 2).
Đối với mục đích dịch tễ học, COVID-19 nặng ở người lớn được định nghĩa là khó thở, tần số hô hấp ≥ 30 nhịp thở/phút, độ bão hòa oxy trong máu ≤ 93%, tỷ lệ PaO2:FiO2 < 300 mm Hg, hoặc thâm nhiễm hơn 50% phế trường trong vòng 24 đến 48 giờ kể từ khi bắt đầu các triệu chứng [12] Trong một nhóm lớn bệnh nhân bị COVID-19, 81% có bệnh nhẹ, 14% mắc bệnh nặng, và 5% bệnh nặng do suy cơ quan; tỷ lệ tử vong ở nhóm bệnh nặng là 49% [12] Phần lớn bệnh nhân bị bệnh nặng với COVID-19 được thở máy kéo dài [8]
”Chụp X quang ngực (hình A) cho thấy hình kính mờ và đông đặc hai bên. Chụp cắt lớp vi tính (CT) lồng ngực (hình B) cho thấy hình kính mờ hai bên. Siêu âm lồng ngực (hình C) cho thấy B-line (mũi tên); hình ảnh này do Tiến sĩ Christopher Parkhurst cung cấp. CT đầu (hình D) cho thấy nhồi máu não trái-lớn-hơn-phải (mũi tên).”
Những người có tình trạng bệnh lý mãn tính như bệnh tim mạch, đái tháo đường và béo phì có nhiều khả năng bị bệnh nặng do COVID- 19. Tỷ lệ mắc bệnh hiểm nghèo ở nam cũng cao hơn ở nữ và ở người trên 65 tuổi cao hơn ở người trẻ hơn.[13-15] Tuy nhiên, những người khỏe mạnh ở mọi lứa tuổi đều có thể bị ốm nặng với COVID-19.[13] Một dấu hiệu của Đại dịch COVID-19 là sự xuất hiện đột ngột của một số lượng bệnh nhân nặng chưa từng có trong một khu vực địa lý nhỏ.[12,14] Điều này có thể áp đảo nguồn lực chăm sóc sức khỏe địa phương, dẫn đến thiếu nhân viên được đào tạo, máy thở, liệu pháp thay thế thận và giường chăm sóc đặc biệt.